Lịch sử phát triển của phép duy vật biện chứng
“Lịch sử phát triển của phép duy vật biện chứng song song với lịch sử phát triển khoa học”
*Ảnh : Lời của người tạo ra Sci-hub - trang lậu tài liệu khoa học lớn nhất thế giới .
+ DUY VẬT VÀ BIỆN CHỨNG Ở THỜI KÌ CỔ ĐẠI :
Hy Lạp thế kỷ 6 - 5 trước công nguyên xuất hiện một làn sóng triết học mới với góc nhìn duy vật , làn sóng này bao gồm những nhà triết học giỏi nhất thời điểm này như : Thales, Anaximenes, Heraclitus ,Epicurus . Các nhà duy vật cổ đại cũng là những người đầu tiên nhận ra tính chất biện chứng của vạn vật . Heraclitus hay còn là “Cha đẻ của phép biện chứng” đã có câu “Không có gì là bật động , mọi thứ chuyển động .Không ai tắm ở trong cùng một dòng sông hai lần” vì dòng sông ở hai thời điểm khác nhau không phải cùng một dòng sông và người trước và sau khi bước vào dòng sông cũng vậy. Vì ở thời điểm này khoa học vẫn chưa phát triển nên các nhà triết học này không có phương pháp nào để chứng minh suy nghĩ của họ , phần lớn các tư tưởng duy vật lúc này mang tính trực giác . Một vấn đề lớn hơn là truyền thống bám rễ của Aristotle - một người theo duy tâm , tư tưởng của Aristotle được coi là tư tưởng triết học chính thức của thời điểm đó , lấn át các suy nghĩ duy vật hay khoa học . Các lý tưởng của Aristotle bám rễ cho đến tận thời trung cổ , dưới sự bảo vệ và đàn áp khắt khe của các nhà thờ công giáo . Phải đến tận thế kỷ 11 - 12 thì duy vật mới phát triển trở lại ở Anh và Pháp .
+DUY VẬT VÀ BIỆN CHỨNG Ở THỜI KÌ CẬN ĐẠI :
Song song với cuộc cách mạng khoa học và sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học tự nhiên như vật lý , sinh học , hóa học giải thích được các hiện tượng tự nhiên .Cũng từ đó dần dần dẫn đến sự thoái trào của tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật theo đó trở lại ở các nước như Anh và Pháp . Các nhân vật nổi tiếng của các phong trào này bao gồm : Diderot , Bacon , Hume , Thomas Hobbes , John Locke . Các nhà triết học duy vật thời này tuy nhiên bị dựa vào chủ nghĩa kinh nghiệm (Empiricism) nổi tiếng ở thời điểm đó , nên dẫn đến chủ nghĩa duy vật siêu hình và sau đó là chủ nghĩa duy vật cơ học. +THẾ KỶ 19 VÀ NHỮNG PHÁT KIẾN KHOA HỌC : Ở thế kỷ 19 nhiều những khám phá khoa học đã dần mở đường cho chủ nghĩa duy vật biện chứng , tiêu biểu : -Sự khám phá ra tế bào sống và sự phát triển của chúng : Tiền đề cho thuyết tiến hóa . Khám phá này dẫn đến sự hiểu biết rằng sự sống được tạo thành từ một chuỗi sinh và tử và rằng mọi sinh vật sống đều là sự kết hợp của các tế bào thay vì mỗi cá thể là một tồn tại độc lập . Phát hiện này sau đó không để lại ranh giới nào giữa động vật và thực vật và do đó xóa tan khái niệm siêu hình . Đây cũng là tiền đề cho cặp phạm trừ quan hệ giữa cái chung là cái riêng. -Sự khám phá ra chuyển đổi năng lượng và định luật bảo toàn năng lượng : Trước đây, khoa học tin rằng âm thanh, nhiệt và ánh sáng,hoàn toàn khác biệt với nhau. Nhưng giờ đây người ta phát hiện ra rằng tất cả những hiện tượng này có thể chuyển hóa thành nhau, rằng có những chuỗi quá trình trong vật chất trơ cũng như trong bản chất sống. Sự tiết lộ này lại giáng thêm một đòn nữa vào tư duy siêu hình . Quay lại bài viết của mình về vật động lưu thông tư bản , định luật bảo toàn năng lượng là tiền đề cho học thuyết giá trị lao động của Marx . -Học thuyết tiến hóa của Darwin : Mọi sản phẩm của tự nhiên đều là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài của các vi sinh vật ban đầu là đơn bào: mọi thứ đều là sản phẩm của một quá trình lâu dài có tế bào là nguồn gốc. Chúng ta đã thấy mối quan hệ của duy vật biện chứng và thuyết tiến hóa của Darwin ở bài trước , cho thấy thuyết tiến hóa là tiền đề cho quy luật Lượng-Chất và phủ định của phủ định .
+ TÍNH KHOA HỌC CHỦ NGHĨA MARX:
Ở trên chúng ta đã nhìn qua sự phát triển của khoa học dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng . Nhưng tại sao chúng ta lại nói triết học Marx lại có tính khoa học ? Chúng ta thương hiểu khoa học theo nghĩa khoa học tự nhiên (vd : hóa học , vật lý , sinh học) nhưng định nghĩa của khoa học là một hệ thống kỷ luật mà việc xây dựng và tổ chức kiến thức phải dưới dạng các giả thuyết và dự đoán có thể kiểm chứng được về thế giới tự nhiên. Để một ngành được coi là khoa học thì ngành đó phải áp dụng phương pháp khoa học , là một bộ các kỹ thuật nhằm nghiên cứu các hiện tượng, mục đích là để thu được kiến thức mới, hoặc chỉnh sửa và gắn kết với các kiến thức trước . Để được coi là khoa học, phương pháp điều tra phải được dựa vào việc thu thập chứng cứ thực nghiệm hoặc chứng cứ đo lường được, tuân thủ theo những nguyên tắc lý luận cụ thể. Triết học Marx có nguyên tắc lý luận cụ thể là phép duy vật biện chứng , và được đảm bảo kỷ luật qua phương pháp phê bình và tự phê bình . Các học thuyết về giá trị lao động , định luật của xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút và vô số các học thuyết của Marx đã bị chỉ trích và được bảo vệ bởi rất nhiều các nhà khoa học đi kèm với vố số các thực nghiệm xác thực. Trong các giáo trình ở Việt Nam hay coi tính khoa học của chủ nghĩa Marx như một điều tất nhiên , mà không đi sâu vào những tranh luận , phản biện khiến chủ nghĩa Marx giống một dạng giáo điều hơn tư duy khoa học . Khi đi vào các học thuyết kinh tế chúng ta có thể nhìn qua một số những chỉ trích và bảo vệ của các nhà khoa học cũng như các cuộc tranh luận của các thử nghiệm vô sản cũ để hiểu rõ tại sao chủ nghĩa Marx đến bây giờ vẫn được coi trọng và tiếp tục được xây dựng như một ngành khoa học sống.