× Trang chủ Chủ đề Bài viết Tài liệu Facebook

Ngọn lửa nhỏ

Marx có thuyết giá trị lao động không ? - Paul Cockshott

Đây là bản dịch sang tiếng việt bài blog của giáo sư khoa học máy tính kiêm nhà kinh tế - chính trị học Marxist Paul Cockshott. Bài blog tên “Did Marx have a labour theory of value?” trên blog của ông ở

Link đến bài blog

Thật vô lý khi phải trả lời câu hỏi này.

Nó đã được các thế hệ các nhà kinh tế học trước đây trả lời là có [12] một cách triệt để đến mức tưởng như không cần phải xem xét lại vấn đề này nữa. Nhưng gần đây, David Harvey đã đăng một bài viết ngắn [6] cho rằng Marx là người phản đối học thuyết giá trị lao động.

“Nhiều người tin rằng Marx đã tiếp thu học thuyết giá trị lao động từ Ricardo như một khái niệm nền tảng cho các nghiên cứu của ông về tích lũy tư bản. Vì học thuyết giá trị lao động nhìn chung đã bị mất uy tín, nên thường có tuyên bố đầy uy quyền rằng các lý thuyết của Marx là vô giá trị. Nhưng trên thực tế, Marx chưa từng tuyên bố rằng ông trung thành với học thuyết giá trị lao động. Học thuyết đó thuộc về Ricardo, người dù thừa nhận nó có nhiều vấn đề nghiêm trọng vẫn khẳng định rằng câu hỏi về giá trị là then chốt đối với nghiên cứu kinh tế chính trị. Trong một vài trường hợp hiếm hoi Marx trực tiếp bình luận về vấn đề này, ông nhắc đến lý thuyết giá trị chứ không phải học thuyết giá trị lao động. Vậy, lý thuyết giá trị của Marx là gì, và nó khác với học thuyết giá trị lao động ra sao?([6])”

Thật khó để coi điều này là nghiêm túc, nhưng vì Michael Roberts đã có phản hồi, nên có lẽ tôi cũng nên làm tương tự và viết một phản hồi ngắn. Harvey cho rằng học thuyết giá trị lao động nhìn chung đã bị mất uy tín. Nhưng bị mất uy tín theo nghĩa nào? Nói rằng học thuyết này không được các khoa kinh tế ưa chuộng là đúng, nhưng đó là vì lý do chính trị – kể từ thời Gray và Marx, học thuyết giá trị lao động đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Vì các nhà kinh tế học hàn lâm nói chung không muốn bị gắn mác xã hội chủ nghĩa, họ đã cố gắng hết sức để giữ khoảng cách với học thuyết này. Nhưng chưa ai trong số họ từng đưa ra bất kỳ bằng chứng thực nghiệm nào để bác bỏ nó. Nó bị mất uy tín về mặt xã hội, nhưng không bị bác bỏ về mặt thực nghiệm.

Nếu muốn bác bỏ một học thuyết về thế giới, bạn phải chỉ ra rằng học thuyết đó đưa ra những dự đoán thực nghiệm sai. Eratosthenes đã bác bỏ thuyết Trái Đất phẳng và xác nhận thuyết Trái Đất tròn bằng cách quan sát rằng khi Mặt Trời ở thẳng trên đầu tại Syene thì ở Alexandria nó nghiêng một góc 7°12′ so với phương thẳng đứng, điều này cho thấy Trái Đất cong với chu vi khoảng 25.000 dặm. Nếu Trái Đất phẳng, góc của Mặt Trời sẽ không thay đổi khi bạn đi về phía bắc.

Học thuyết giá trị lao động dự đoán rằng giá cả của hàng hóa sẽ thay đổi tỷ lệ thuận với hàm lượng lao động của chúng. Bác bỏ điều này lẽ ra rất dễ — chỉ cần chỉ ra rằng trên thực tế, giá cả của chúng không thay đổi theo hàm lượng lao động theo cách đó. Các nhà kinh tế phản đối học thuyết giá trị lao động đã làm điều này chưa?

Hoàn toàn không. Họ thậm chí còn chẳng buồn thu thập dữ liệu để tiến hành kiểm chứng. Thế là suốt một thế kỷ sau Marx, học thuyết này bị coi là “mất uy tín” nhưng chưa bao giờ bị bác bỏ bằng thực nghiệm.

Ngay khi các nhà kinh tế bắt đầu thu thập dữ liệu để kiểm nghiệm học thuyết — vốn phụ thuộc vào hệ thống thống kê kinh tế đủ tốt của toàn bộ nền kinh tế — thì họ đã phát hiện ra điều gì? Họ phát hiện ra rằng Ricardo và Marx vẫn luôn đúng. Một loạt các nghiên cứu [18,17,5,13,15,19,1,4,2] từ những năm 1980 đã cho thấy học thuyết giá trị lao động dự đoán giá cả rất tốt. Thay vì bị bằng chứng bác bỏ, nó đã được xác nhận.

Harvey giống như một người theo thuyết Trái Đất phẳng sau thời Eratosthenes, phủ nhận Trái Đất tròn trên cơ sở lý luận của thần học.

Tiếp đó, Harvey phàn nàn rằng Marx chưa từng tuyên bố mình trung thành với học thuyết giá trị lao động. Điều này đúng, vì vào thời Marx viết, đó là học thuyết duy nhất tồn tại. Nó đơn giản là lý thuyết giá trị. Chỉ về sau này, thuyết cận biên hay lý thuyết giá trị tân cổ điển mới được hình thành. Sau Jevons [8], các nhà kinh tế học bắt đầu phân biệt giữa học thuyết giá trị cổ điển hay thuyết giá trị lao động và thuyết giá trị tân cổ điển hay cận biên. Nhưng thật nực cười khi kỳ vọng Marx chọn phe trong một cuộc tranh luận chỉ mới bắt đầu sau khi Tư bản được xuất bản (1867). Vào thời ông viết, người ta rộng rãi thừa nhận rằng lao động là nguồn gốc của giá trị. Ngay cả Jevons, người sáng lập chủ nghĩa cận biên, vẫn thừa nhận rằng giá cả tỷ lệ thuận với lao động ¹, và cho rằng học thuyết lợi ích cận biên của ông cung cấp thêm sự ủng hộ cho giả định đã được công nhận từ lâu này.

Harvey hứa sẽ giải thích lý thuyết giá trị của Marx thực chất là gì, nhưng trong toàn bộ bài viết của mình, ông ta không hề làm điều đó. Lý do là vì sẽ không thể làm được điều này mà không để lộ ra rằng lý thuyết giá trị của Marx, trong tất cả các dự đoán chính, đều giống hệt với của Ricardo.

Khi so sánh các lý thuyết gia, đặc biệt là những người ban đầu viết bằng các ngôn ngữ khác nhau, bạn không nên quá chú ý đến từ vựng cụ thể mà họ sử dụng. Điều quan trọng là mối quan hệ giữa các khái niệm mà họ vận dụng và những mối quan hệ mà các nhà lý thuyết dự đoán sẽ tồn tại trong thế giới thực. Khi xem xét điều này, bạn sẽ thấy Marx đã đi rất sát theo thuyết giá trị của Ricardo.

Có 4 yếu tố then chốt trong lý thuyết giá trị của họ mà cả hai tác giả đều đồng ý:

Do đó, các học thuyết này về cơ bản là giống nhau trong những dự đoán thực nghiệm mà chúng đưa ra, chỉ khác đôi chút về thuật ngữ. Các điểm 1, 2, 3 được xác nhận bởi dữ liệu thực nghiệm trong các nghiên cứu đã dẫn ở trên. Điểm 4 thì được dữ liệu thực nghiệm [5,19,3] ủng hộ rất yếu hoặc bác bỏ. Marx và Ricardo nói cùng một điều khi họ đều đúng, và cũng nói cùng một điều khi họ đều sai.

Vậy nên, đúng là Marx có một học thuyết giá trị lao động giống như Ricardo. Phần lớn học thuyết này không bị bằng chứng bác bỏ, mà trái lại còn được nó xác nhận. Điều này không có nghĩa là Marx không có đóng góp nào. Những đổi mới lớn trong tư tưởng của ông bao gồm:

Tất cả những điều này đều là những đổi mới quan trọng, giúp ông khác biệt với những người đi trước. Không cần phải giả vờ rằng Marx đã có đổi mới trong lý thuyết giá trị — một lĩnh vực mà ông chỉ đơn thuần vận dụng một cách nghiêm ngặt các khái niệm của Ricardo.

Thế còn lao động trừu tượng và lao động cụ thể thì sao ? Sự phân biệt này chẳng phải là một đổi mới của riêng Marx sao?

Thực ra, cụm từ “lao động cụ thể” thì khác, nhưng sự phân biệt về mặt khái niệm giữa hai loại lao động này đã có trong tác phẩm của Adam Smith.

Smith đơn giản dùng từ “lao động” không kèm bổ nghĩa ở những chỗ mà Marx đôi khi gọi là “lao động trừu tượng” ¹⁰. Smith nói rõ rằng khi ông dùng từ “lao động” theo cách này, ông đang nói về lao động ở dạng trừu tượng ¹¹. Khi Smith bàn về sự phân công lao động, ông đang nói về việc phân chia lao động trừu tượng thành cái mà ông gọi là các “loại hình” lao động ¹² hoặc “dạng” lao động ¹³. Đây chính là sự phân biệt mà Marx đưa ra khi, với một cách diễn đạt hơi khác, ông nói về việc trừu tượng hóa khỏi các lao động cụ thể hoặc các loại lao động ¹⁴.

Ở đây cũng đang đưa ra cùng một sự phân biệt về mặt khái niệm giữa các dạng hoạt động khác nhau mà lao động được phân chia thành, và lao động ở dạng trừu tượng — hay khái niệm trừu tượng về lao động.

Nguồn tham khảo :

Footnotes :

  1. "Như vậy chúng ta đã chứng minh rằng hàng hóa sẽ trao đổi trong bất kỳ thị trường nào theo tỷ lệ của các số lượng được sản xuất bởi cùng một lượng lao động." ([7] trang 187)
  2. "Nếu lượng lao động thực hiện trong hàng hóa điều chỉnh giá trị trao đổi của chúng, thì mọi sự gia tăng lượng lao động phải làm tăng giá trị của hàng hóa mà lao động đó được thực hiện trên đó, cũng như mọi sự giảm đi phải làm giảm giá trị." [14] Chương 1, Mục 1
  3. "Nếu chúng ta xem xét hàng hóa như những giá trị, chúng ta xem xét chúng một cách độc quyền dưới khía cạnh duy nhất của lao động xã hội đã được thực hiện, cố định, hoặc nếu bạn muốn, đã được kết tinh. Trong khía cạnh này, chúng chỉ có thể khác nhau bằng cách đại diện cho những lượng lao động lớn hơn hoặc nhỏ hơn, ví dụ như một lượng lao động lớn hơn có thể được thực hiện trong một chiếc khăn lụa hơn là trong một viên gạch. Nhưng làm thế nào để đo lượng lao động? Bằng thời gian mà lao động kéo dài, đo lao động theo giờ, theo ngày, v.v. Tất nhiên, để áp dụng thước đo này, tất cả các loại lao động đều được quy về lao động trung bình hoặc lao động đơn giản như đơn vị của chúng. Do đó, chúng ta đạt đến kết luận này: Một hàng hóa có giá trị, bởi vì nó là sự kết tinh của lao động xã hội. Độ lớn của giá trị của nó, hay giá trị tương đối của nó, phụ thuộc vào lượng ít hay nhiều của chất xã hội đó có trong nó; có nghĩa là, phụ thuộc vào khối lượng tương đối của lao động cần thiết cho việc sản xuất ra nó. Do đó, giá trị tương đối của hàng hóa được xác định bởi những lượng hoặc số lượng tương ứng của lao động, được thực hiện, được nhận ra, được cố định trong chúng. Những lượng tương quan của hàng hóa có thể được sản xuất trong cùng một thời gian lao động thì bằng nhau. Hoặc giá trị của một hàng hóa so với giá trị của hàng hóa khác như lượng lao động cố định trong cái này so với lượng lao động cố định trong cái kia." ([9], Mục VI)
  4. "Không chỉ lao động được áp dụng trực tiếp cho hàng hóa ảnh hưởng đến giá trị của chúng, mà lao động cũng được dành cho các dụng cụ, công cụ, và các tòa nhà, mà lao động được hỗ trợ bởi chúng" [14] Chương 1, Mục 2
  5. "Trong việc tính toán giá trị trao đổi của một hàng hóa, chúng ta phải cộng thêm vào lượng lao động đã được thực hiện trước đó trong nguyên liệu thô của hàng hóa, và lao động được dành cho các dụng cụ, công cụ, máy móc, và các tòa nhà, mà lao động như vậy được hỗ trợ bởi chúng." (Marx, công trình đã nêu)
  6. Xem phê bình của Ricardo đối với Adam Smith về việc nhầm lẫn giữa hàm lượng lao động của hàng hóa với lao động mà một hàng hóa sẽ trao đổi lấy.
  7. Toàn bộ luận điểm của [9] được dành để chỉ ra rằng các công đoàn có thể nâng lương và nâng tỷ trọng tiền lương và rằng những sự gia tăng lương như vậy sẽ không đơn giản dẫn đến giá cả cao hơn.
  8. [14] Chương 1, Mục 4
  9. [11] Phần II
  10. "Do đó, một giá trị sử dụng, hay vật phẩm hữu ích, chỉ có giá trị bởi vì lao động của con người ở dạng trừu tượng đã được thể hiện hoặc được vật chất hóa trong nó. Vậy thì, độ lớn của giá trị này được đo như thế nào? Rõ ràng, bằng lượng của chất tạo ra giá trị, tức lao động, có chứa trong vật phẩm. Tuy nhiên, lượng lao động được đo bằng thời gian kéo dài của nó, và thời gian lao động lại tìm thấy tiêu chuẩn của nó trong các tuần, các ngày, và các giờ." ([10], trang 23, phiên bản pdf MIA)
  11. "Phần lớn mọi người cũng hiểu ý nghĩa của một lượng của một hàng hóa cụ thể hơn là của một lượng lao động. Cái này là một đối tượng rõ ràng, có thể sờ được; cái kia là một khái niệm trừu tượng, mà dù có thể được làm cho đủ dễ hiểu, nhưng không hoàn toàn tự nhiên và rõ ràng như vậy." ([16], trang 23, phiên bản Kindle)
  12. "Thật là đa dạng về lao động, cũng cần thiết để sản xuất ra các công cụ của những người thợ thấp kém nhất trong số họ! Chưa nói đến những máy móc phức tạp như con tàu của thủy thủ, cối xay của thợ dệ, hay thậm chí khung cửi của thợ dệt, chúng ta hãy chỉ xem xét sự đa dạng của lao động cần thiết để tạo ra cái máy rất đơn giản đó, cái kéo mà người chăn cừu dùng để cắt lông cừu. Thợ mỏ, người xây lò nung để nấu chảy quặng, người chặt gỗ, người đốt than củi để sử dụng trong nhà nấu chảy, thợ làm gạch, thợ xây, những công nhân chăm sóc lò nung, thợ máy, thợ rèn, thợ kim hoàn, tất cả họ phải kết hợp những nghệ thuật khác nhau của mình để sản xuất ra chúng." ([16], trang 12-13, phiên bản Kindle)
  13. "Người kéo sợi hầu như luôn là một người khác biệt với thợ dệt; nhưng người cày, người bừa, người gieo hạt, và người gặt lúa, thường là cùng một người. Các dịp cho những loại lao động khác nhau này trở lại với các mùa khác nhau trong năm, không thể có một người nào liên tục được tuyển dụng trong bất kỳ một trong số chúng. Sự bất khả thi của việc tách biệt hoàn toàn và toàn bộ tất cả các nhánh khác nhau của lao động được sử dụng trong nông nghiệp, có lẽ là lý do tại sao sự cải thiện của sức sản xuất của lao động, trong nghệ thuật này, không luôn luôn theo kịp với sự cải thiện của chúng trong sản xuất." ([16], trang 9-10, phiên bản Kindle)
  14. "Vậy nếu chúng ta bỏ qua giá trị sử dụng của hàng hóa, chúng chỉ còn lại một tính chất chung, đó là sản phẩm của lao động. Nhưng ngay cả bản thân sản phẩm của lao động cũng đã trải qua một sự thay đổi trong tay chúng ta. Nếu chúng ta trừu tượng hóa khỏi giá trị sử dụng của nó, chúng ta đồng thời cũng trừu tượng hóa khỏi các yếu tố vật chất và hình dạng làm cho sản phẩm trở thành một giá trị sử dụng; chúng ta không còn thấy trong đó một cái bàn, một ngôi nhà, sợi, hay bất kỳ vật hữu ích nào khác. Sự tồn tại của nó như một vật chất được đặt ra ngoài tầm nhìn. Nó cũng không còn có thể được coi là sản phẩm của lao động của thợ mộc, thợ nề, thợ kéo sợi, hay của bất kỳ loại lao động sản xuất xác định nào khác. Cùng với những phẩm chất hữu ích của bản thân các sản phẩm, chúng ta đặt ra ngoài tầm nhìn cả đặc tính hữu ích của các loại lao động khác nhau được thể hiện trong chúng, và các hình thức cụ thể của lao động đó; không còn lại gì ngoài điều chung cho tất cả chúng; tất cả đều được quy về một và cùng một loại lao động, lao động của con người ở dạng trừu tượng." ([10], trang 28, phiên bản pdf MIA)

#dịch #ktct #tài liệu