Thân phát xít - Michael Parenti (từ cuốn Black shirt and red)
Một đoạn trong chương đầu trong cuốn Black shirt and red của Micheal Parenti về sự hợp tác của các nước tư bản phương tây với Đức Quốc Xã trước thế chiến thứ 2 và tàn dư của chúng sau đó .
Một trong những điều thường bị giới viết lách chính thống bỏ qua có chủ đích là cách các quốc gia tư bản phương Tây từng hợp tác với chủ nghĩa phát xít. Trong những nỗ lực thỏa hiệp của mình, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đã có thái độ thân thiện với chủ nghĩa Quốc Xã. Ông ta và nhiều người trong giai cấp của mình xem Hitler như một bức tường thành chống lại chủ nghĩa cộng sản ở Đức, và xem Đức Quốc xã là tường thành chống cộng ở châu Âu.
Sau Thế chiến II, các đồng minh tư bản phương Tây đã làm rất ít để loại bỏ chủ nghĩa phát xít ở Ý hay Đức, ngoại trừ việc đem một số ít lãnh đạo hàng đầu ra xét xử tại Tòa án Nuremberg. Đến năm 1947, phe bảo thủ Đức bắt đầu miêu tả các công tố viên Nuremberg như “những con rối của người Do Thái và cộng sản”. Ở Ý, phong trào du kích mạnh mẽ từng đấu tranh vũ trang chống phát xít lại nhanh chóng bị coi là “khả nghi” và “phản quốc”. Chỉ trong vòng một năm sau chiến tranh, hầu như tất cả các phần tử phát xít Ý đều được trả tự do, trong khi hàng trăm người cộng sản và các du kích cánh tả từng chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của phát xít Đức thì bị tống vào tù. Lịch sử bị đảo ngược: biến lũ phát xít thành nạn nhân, còn những người cánh tả thành tội phạm. Cơ quan chức năng đồng minh đã tiếp tay cho những hành động này. [1]
Dưới sự bảo trợ của chính quyền chiếm đóng Hoa Kỳ, các cơ quan cảnh sát, tòa án, quân đội, an ninh, và bộ máy hành chính vẫn chủ yếu do những kẻ từng phục vụ cho chế độ phát xít cũ hoặc những người được họ tuyển dụng điều hành - điều này vẫn đúng cho đến ngày nay. Những kẻ gây ra cuộc diệt chủng Holocaust đã sát hại sáu triệu người Do Thái, nửa triệu người Roma, hàng ngàn người đồng tính, và hàng triệu người Ukraine, Nga, Ba Lan, và các dân tộc khác, nhưng lại thoát khỏi hình phạt - phần lớn vì những người lẽ ra phải điều tra các tội ác đó lại chính là kẻ đồng lõa.
Trái lại, khi những người cộng sản tiếp quản Đông Đức, họ đã loại bỏ khoảng 80% các thẩm phán, giáo viên, và quan chức vì sự hợp tác của họ với Đức Quốc xã; họ bỏ tù hàng ngàn người, và xử tử sáu trăm lãnh đạo Đảng Quốc xã vì tội ác chiến tranh. Họ còn có thể xử tử thêm nhiều tội phạm chiến tranh hơn nữa nếu như những kẻ đó không chạy trốn sang phía Tây để được phương Tây bảo vệ.
Vậy điều gì đã xảy ra với các doanh nghiệp Mỹ từng hợp tác với phát xít? Ngân hàng Chase National của gia đình Rockefeller đã sử dụng văn phòng ở Paris trong chế độ Vichy để rửa tiền cho Đức Quốc xã, giúp phát triển thương mại quốc tế của bọn phát xít, và hoàn toàn không bị trừng phạt.[2] Các tập đoàn như DuPont, Ford, General Motors và ITT sở hữu các nhà máy tại các quốc gia kẻ thù, sản xuất nhiên liệu, xe tăng, và máy bay để tàn phá lực lượng đồng minh. Sau chiến tranh, thay vì bị truy tố vì tội phản quốc, ITT được chính phủ Mỹ bồi thường 27 triệu đô la vì những thiệt hại do bom đồng minh gây ra cho các nhà máy ở Đức. General Motors thì nhận được hơn 33 triệu đô. Phi công được chỉ thị không được đánh trúng các nhà máy thuộc sở hữu của Mỹ ở Đức. Vì vậy, Cologne gần như bị san bằng bởi bom Mỹ nhưng nhà máy của Ford thì vẫn nguyên vẹn và thậm chí dân thường Đức còn dùng nó làm hầm trú ẩn.[3]
Trong nhiều thập niên, giới lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn tiếp tục duy trì chủ nghĩa phát xít Ý. Từ 1945 đến 1975, các cơ quan chính phủ Mỹ đã tài trợ khoảng 75 triệu đô la cho các tổ chức cánh hữu tại Ý, bao gồm cả những tổ chức có liên hệ mật thiết với phong trào tân phát xít Movimento Sociale Italiano (MSI). Năm 1975, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã gặp lãnh đạo MSI Giorgio Almirante tại Washington để bàn bạc về các "phương án thay thế" nếu Đảng Cộng sản Ý giành thắng lợi trong bầu cử. Hàng trăm tội phạm chiến tranh Quốc xã đã tìm được nơi trú ẩn tại Hoa Kỳ, sống ẩn danh thoải mái hoặc được tuyển dụng vào các cơ quan tình báo Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, được bảo vệ bởi các nhân vật quyền lực. Một số trong số họ còn tham gia vào ủy ban tranh cử tổng thống của Richard Nixon, Ronald Reagan, và George Bush.[4]
Tại Ý, từ 1969 đến 1974, các phần tử cao cấp trong tình báo quân sự và dân sự Ý, thành viên của hội kín P2 gồm giới thượng lưu phản động, các quan chức Vatican thân phát xít, tướng lĩnh cấp cao, và lực lượng lính đánh thuê chống cộng do NATO hậu thuẫn mang tên GLADIO, đã phát động một chiến dịch khủng bố và phá hoại có tổ chức, gọi là "chiến lược căng thẳng". Các tổ chức tham gia bao gồm nhóm tân phát xít bí mật Ordine Nuovo - “Trật tự Mới”, quan chức NATO, thành viên của lực lượng carabinieri (hiến binh Ý), trùm mafia, ba mươi tướng lĩnh, tám đô đốc và các hội viên Hội Tam Điểm có ảnh hưởng như Licio Gelli (một tội phạm chiến tranh phát xít được tình báo Mỹ tuyển dụng năm 1944). Chiến dịch khủng bố được hỗ trợ bởi "bộ máy an ninh quốc tế" bao gồm cả CIA. Năm 1995, CIA từ chối hợp tác với ủy ban quốc hội Ý điều tra về chiến lược căng thẳng. Những kẻ khủng bố đã thực hiện một loạt các vụ bắt cóc, ám sát và đánh bom hàng loạt (i stragi), bao gồm vụ nổ ở nhà ga Bologna tháng 8 năm 1980 khiến 85 người chết và khoảng 200 người bị thương. Các cuộc điều tra tư pháp sau này kết luận rằng chiến lược căng thẳng không chỉ đơn thuần là sản phẩm của chủ nghĩa tân phát xít, mà là một phần của chiến dịch lớn hơn do các lực lượng an ninh nhà nước tiến hành để chống lại sự lớn mạnh của cánh tả trong quốc hội dân chủ. Mục tiêu là "đánh bại bằng mọi giá sự trỗi dậy của Đảng Cộng sản Ý trong bầu cử", và gieo rắc nỗi sợ hãi trong dân chúng để làm suy yếu nền dân chủ đa đảng, nhằm thay thế nó bằng một "nền cộng hòa tổng thống chuyên chế" hoặc ít nhất là một hành pháp mạnh hơn và ổn định hơn.
Trong thập niên 1980, hàng chục người bị sát hại tại Đức, Bỉ và các nước Tây Âu khác bởi những phần tử cực hữu được các cơ quan an ninh nhà nước hậu thuẫn. Những hành vi khủng bố này hầu như không được truyền thông tư bản Mỹ đưa tin. Tương tự như chiến lược căng thẳng ở Ý, các vụ tấn công nhằm gieo rắc sự hoảng loạn trong dân chúng để làm suy yếu các nền dân chủ xã hội hiện có. Giới chức phương Tây ở châu Âu và Hoa Kỳ đã làm rất ít để lật tẩy mạng lưới tân phát xít. Khi mùi hôi của chủ nghĩa phát xít dần trở thành mùi thối không thể chối cãi, ta càng thấy rõ rằng con cháu của Hitler vẫn còn đó, và chúng có quan hệ nguy hiểm với nhau cũng như với các cơ quan an ninh nhà nước ở nhiều quốc gia tư bản phương Tây. Tại Ý, năm 1994, cuộc bầu cử quốc gia đã được thắng bởi Liên minh Quốc gia - phiên bản mở rộng của MSI - liên minh với phe ly khai miền Bắc và Forza Italia, một phong trào bán phát xít do nhà tài phiệt truyền thông Silvio Berlusconi đứng đầu. Liên minh Quốc gia khai thác sự bất mãn về thất nghiệp, thuế và nhập cư. Họ kêu gọi áp dụng một mức thuế chung cho cả người giàu lẫn người nghèo, cấp phiếu học đường, cắt giảm phúc lợi xã hội và tư nhân hóa hầu hết các dịch vụ công.
Tân phát xít Ý đã học hỏi từ cánh hữu Mỹ cách đạt được các mục tiêu giai cấp của chủ nghĩa phát xít trong hình thức dân chủ giả hiệu: sử dụng sự lạc quan kiểu Reagan để thay thế quân phát xít giày đinh bằng những gương mặt giải trí truyền thông; thuyết phục dân chúng rằng chính phủ là kẻ thù - đặc biệt là bộ phận phúc lợi xã hội- trong khi lại tăng cường sức mạnh đàn áp của nhà nước; kích động thù ghét chủng tộc giữa người bản địa và người nhập cư; ca tụng thị trường tự do như một huyền thoại; và thúc đẩy chính sách thuế chi tiêu có lợi cho tầng lớp giàu. Cánh hữu phương Tây dùng các hình thức nhẹ nhàng hơn của chiêu bài phát xít để thu hút quần chúng. Ở Mỹ, họ đưa ra những lời kêu gọi mang tính dân túy hướng đến “người Mỹ trung lưu bình dân” trong khi âm thầm thúc đẩy các chính sách phục vụ lợi ích của tầng lớp tài phiệt. Năm 1996, Chủ tịch Hạ viện Mỹ Newt Gingrich, trong khi rao giảng về một “cuộc cách mạng mới” nhằm tái thiết xã hội, đã tuyên bố: “Tôi là một nhà cách mạng thực thụ.” Dù ở Ý, Đức, Mỹ hay bất kỳ quốc gia nào khác, khi cánh hữu hô hào một “trật tự mới” hay một “cuộc cách mạng mới”, thì đó cũng chỉ là để phục vụ lợi ích của những kẻ có tiền, đưa chúng ta đi theo con đường phản động và đàn áp mà các nước Thế giới Thứ Ba đã bị cưỡng ép đi theo từ lâu, và giờ, những kẻ trên đỉnh đang muốn toàn bộ thế giới cùng đi theo con đường đó.
Footnotes :
[1] : Roy Palmer Domenico, Italian Fascists on Trial, 1943-1948 (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1991), passim. Ở Pháp, rất ít phần tử cộng tác Vichy đã bị thanh trừng . "Không một ai bất kể cấp bậc gì, đã bị trừng phạt nghiêm minh vì vai trò của họ trong việc lùa bắt và trục xuất người Do Thái đến các trại tập trung Đức Quốc xã": Herbert Lottman, The Purge (New York: William Morrow, 1986), 290. Điều tương tự cũng có thể được nói về nước Đức ; xem Ingo Muller, Hitlers Justice (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1991), part 3, "The Aftermath" Giới chức quân sự Mỹ đã khôi phục quyền lực cho những kẻ cộng tác với phát xít ở nhiều quốc gia Viễn Đông. Tại Nam Triều Tiên, chẳng hạn, những kẻ cộng tác với Nhật và lực lượng cảnh sát được huấn luyện bởi người Nhật đã được sử dụng để đàn áp các lực lượng dân chủ cánh tả. Quân đội Nam Hàn do các sĩ quan từng phục vụ trong Quân đội Đế quốc Nhật Bản chỉ huy, và họ còn "tự hào về điều đó". Nhiều người trong số họ đã phạm tội ác chiến tranh ở Philippines và Trung Quốc: Hugh Deane, "Korea, China and the United States: A Look Back," Monthly Review, tháng 2 năm 1995, tr. 20 và 23.
[2] : Sau chiến tranh, Hermann Abs, người đứng đầu Ngân hàng Đức và trên thực tế là "chủ nợ của Hitler," được ca ngợi bởi David Rockefeller như là “nhà ngân hàng quan trọng nhất thời đại của chúng ta.” Theo cáo phó đăng trên New York Times, Abs “đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc tái thiết Tây Đức sau Thế chiến II.” Cả Times lẫn Rockefeller đều không nói một lời nào về mối liên hệ của Abs với Đức Quốc xã, các hoạt động ngân hàng mang tính bóc lột trên khắp châu Âu bị Đức chiếm đóng, cũng như việc ông ta tham gia, với tư cách là thành viên ban quản trị của tập đoàn I.G. Farben, vào việc sử dụng lao động nô lệ tại trại tập trung Auschwitz: Robert Carl Miller, Portland Free Press, Tháng 9/10 năm 1994.
[3] : Charles Higham, Trading with the Enemy.
[4] : Một trong số họ, Boleslavs Maikovskis, một cảnh sát trưởng người Latvia, người đã tẩu thoát tới Tây Đức để tránh bị Liên Xô điều tra tội ác chiến tranh và sau đó là tới Mỹ, là người bị cáo buộc có dính lứu nặng nề với vụ thảm sát 200 dân thường Latvia. Ông ta phục vụ trong một thời gian cho một tiểu ban của đảng Cộng hòa nhằm tái cử tổng thống Nixon, rồi lại bỏ trốn về Đức để tránh một cuộc điều tra muộn màng về tội ác chiến tranh của Hoa Kỳ, và chết ở tuổi 92 (New York Times, 5/8/96). Tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã đã nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan tình báo phương Tây, giới kinh doanh, quân đội, thậm chí cả Vatican. Tháng 10 1944, Thiếu tá lính dù Đức Walter Reder đã tàn sát 1,836 dân thường không vũ trang ở một ngôi làng gần Bologna, Ý, như một hành động trả đũa đối với các hoạt động của quân du kích. Ông ta được trả tự do vào năm 1985, sau khi Giáo hoàng John Paul II, cùng với một số người khác đã can thiệp thay ông ta, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ thân nhân các nạn nhân.