Phỏng vấn Stalin
Cuộc phỏng vấn giữa J. Stalin và Roy Howard . Ngày 1 tháng 3 năm 1936, đồng chí Stalin đã dành một cuộc phỏng vấn cho Roy Howard, Chủ tịch hệ thống báo chí Scripps-Howard .
Howard: Theo ngài, những hậu quả của các sự kiện gần đây ở Nhật Bản sẽ là gì đối với tình hình ở Viễn Đông?
Stalin: Cho đến nay thì khó mà nói được. Tư liệu hiện có quá ít để có thể kết luận. Bức tranh vẫn chưa đủ rõ ràng.
Howard: Lập trường của Liên Xô sẽ thế nào nếu Nhật Bản phát động cuộc tiến công quân sự vốn đã được dự đoán từ lâu vào Ngoại Mông?
Stalin: Nếu Nhật Bản dám tấn công Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ và xâm phạm nền độc lập của nước này, chúng tôi sẽ buộc phải giúp Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Stomonyakov, trợ lý của Litvinov, gần đây đã thông báo cho đại sứ Nhật Bản tại Moskva về điều đó, đồng thời nhấn mạnh đến quan hệ hữu nghị bất biến mà Liên Xô đã duy trì với Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ từ năm 1921. Chúng tôi sẽ giúp Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ giống như chúng tôi đã giúp họ vào năm 1921.
Howard: Nếu Nhật Bản tìm cách chiếm thủ đô Ulan-Bator thì liệu hành động trực tiếp của Liên Xô có trở thành điều tất yếu không?
Stalin: Có.
Howard: Các sự kiện gần đây có làm phát sinh hoạt động mới nào của Nhật Bản trong khu vực này mà Liên Xô coi là có tính chất xâm lược không?
Stalin: Tôi cho rằng người Nhật vẫn tiếp tục tập trung quân đội ở biên giới Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, nhưng cho đến nay chưa quan sát thấy những nỗ lực mới nhằm gây ra xung đột biên giới.
Howard: Liên Xô dường như tin rằng Đức và Ba Lan có ý đồ xâm lược chống lại Liên Xô, và đang lên kế hoạch hợp tác quân sự. Tuy nhiên, Ba Lan đã phản đối và tuyên bố không cho phép bất kỳ lực lượng nước ngoài nào sử dụng lãnh thổ của mình làm bàn đạp cho các hoạt động chống lại một quốc gia thứ ba. Vậy Liên Xô hình dung hành động xâm lược của Đức sẽ diễn ra như thế nào? Từ vị trí nào, theo hướng nào quân Đức sẽ tiến hành?
Stalin: Lịch sử cho thấy rằng khi một quốc gia nào đó định gây chiến với một quốc gia khác, ngay cả khi không có chung biên giới, thì nó sẽ bắt đầu tìm kiếm những con đường biên giới qua đó nó có thể tiến đến sát biên giới của quốc gia mà nó muốn tấn công. Thông thường, quốc gia xâm lược sẽ tìm thấy những con đường như thế. Hoặc nó tìm được bằng sức mạnh, như đã xảy ra năm 1914 khi Đức xâm chiếm Bỉ để đánh vào Pháp, hoặc nó "mượn" một đường biên giới, chẳng hạn như Đức đã làm với Latvia vào năm 1918, trong cuộc tiến công về Leningrad. Tôi không biết chính xác Đức sẽ tìm biên giới nào để phục vụ mục tiêu của mình, nhưng tôi nghĩ rằng họ sẽ tìm được những kẻ sẵn sàng “cho mượn” biên giới đó.
Howard: Hình như cả thế giới hôm nay đều dự đoán một cuộc đại chiến nữa. Nếu chiến tranh là điều không thể tránh khỏi, theo ngài Stalin, khi nào nó sẽ nổ ra?
Stalin: Điều đó không thể dự đoán được. Chiến tranh có thể bùng phát bất ngờ. Ngày nay, người ta không còn tuyên bố chiến tranh nữa. Nó chỉ đơn giản là bắt đầu không báo trước. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng vị thế của những người bạn của hòa bình đang ngày càng mạnh lên. Những người bạn của hòa bình có thể hoạt động công khai. Họ dựa vào sức mạnh của dư luận. Họ có trong tay những công cụ như Hội Quốc Liên, chẳng hạn. Đây chính là ưu thế của những người bạn của hòa bình. Sức mạnh của họ nằm ở chỗ các hoạt động chống chiến tranh của họ được hậu thuẫn bởi ý chí của đông đảo quần chúng nhân dân. Không có một dân tộc nào trên thế giới muốn có chiến tranh. Còn những kẻ thù của hòa bình thì buộc phải hoạt động bí mật. Đó chính là bất lợi của chúng. Nhân tiện cũng có thể nói rằng, chính vì điều này mà có khả năng chúng sẽ quyết định một cuộc phiêu lưu quân sự như một hành động liều lĩnh. Một trong những thành công mới nhất mà những người bạn của hòa bình đạt được là việc Nghị viện Pháp phê chuẩn Hiệp ước Tương trợ Pháp–Xô. Ở một mức độ nhất định, hiệp ước này là một trở ngại đối với kẻ thù của hòa bình.
Howard: Nếu chiến tranh nổ ra, theo ngài Stalin, nó có khả năng bùng phát ở đâu? Ở đâu những đám mây chiến tranh đang đe dọa nhất, ở phương Đông hay phương Tây?
Stalin: Theo tôi có hai ổ nguy cơ chiến tranh. Thứ nhất là ở Viễn Đông, trong khu vực Nhật Bản. Tôi đang nghĩ đến những tuyên bố nhiều lần của giới quân sự Nhật chứa đựng lời đe dọa đối với các cường quốc khác. Ổ nguy cơ thứ hai là ở khu vực nước Đức. Khó mà nói ổ nào nguy hiểm hơn, nhưng cả hai đều tồn tại và đang hoạt động. So với hai ổ nguy cơ chính này thì cuộc chiến tranh Ý–Abyssinia chỉ là một đoạn xen vào. Hiện nay, ổ nguy cơ ở Viễn Đông bộc lộ nhiều hoạt động nhất. Tuy nhiên, trung tâm nguy cơ này có thể chuyển sang châu Âu. Điều đó được chỉ ra, chẳng hạn, qua cuộc phỏng vấn mà Ngài Hitler gần đây đã dành cho một tờ báo Pháp. Trong cuộc phỏng vấn này, Hitler dường như muốn nói những điều hòa bình, nhưng hắn đã rắc quá nhiều lời đe dọa chống lại cả Pháp lẫn Liên Xô vào sự “hòa bình” ấy, đến nỗi chẳng còn lại gì của cái gọi là “hòa bình” cả. Anh thấy đó, ngay cả khi Hitler muốn nói về hòa bình, hắn cũng không tránh khỏi thốt ra những lời đe dọa. Đây là điều có tính chất điển hình.
Howard: Theo ngài, tình huống hay điều kiện nào tạo ra mối đe dọa chiến tranh chính ngày nay?
Stalin: Chủ nghĩa tư bản.
Howard: Ở biểu hiện cụ thể nào của chủ nghĩa tư bản?
Stalin: Ở biểu hiện đế quốc, chiếm đoạt của nó. Ông còn nhớ Thế chiến thứ nhất đã nổ ra thế nào. Nó nảy sinh từ khát vọng tái phân chia thế giới. Ngày nay chúng ta cũng có bối cảnh tương tự. Có những quốc gia tư bản cho rằng họ đã bị lừa gạt trong lần phân chia trước đây về phạm vi ảnh hưởng, lãnh thổ, nguồn nguyên liệu, thị trường, v.v… và họ muốn một cuộc phân chia lại theo hướng có lợi cho mình. Chủ nghĩa tư bản, trong giai đoạn đế quốc của nó, là một hệ thống coi chiến tranh là công cụ hợp pháp để giải quyết tranh chấp quốc tế - một phương thức hợp pháp trên thực tế, cho dù không phải trên danh nghĩa pháp luật.
Howard: Liệu có phải có một yếu tố nguy hiểm nào trong nỗi sợ hãi thực sự đang tồn tại ở những gì ngài gọi là các quốc gia tư bản - rằng Liên Xô có ý định áp đặt học thuyết chính trị của mình lên các quốc gia khác?
Stalin: Không hề có cơ sở nào cho những nỗi sợ hãi như vậy. Nếu ông cho rằng nhân dân Xô-viết muốn thay đổi bộ mặt của các quốc gia xung quanh, và lại bằng biện pháp cưỡng bức, thì ông đã hoàn toàn nhầm lẫn. Tất nhiên, nhân dân Xô-viết muốn thấy bộ mặt các quốc gia xung quanh thay đổi, nhưng đó là việc của các quốc gia ấy. Tôi không thấy có mối nguy nào mà các quốc gia láng giềng có thể cảm nhận từ những tư tưởng của nhân dân Xô-viết, nếu quả thực các quốc gia ấy đang ngồi vững trên yên ngựa.
Howard: Vậy phát biểu này của ngài có nghĩa là Liên Xô đã ở một mức độ nào đó từ bỏ kế hoạch và ý định gây ra cách mạng thế giới?
Stalin: Chúng tôi chưa bao giờ có những kế hoạch và ý định như vậy.
Howard: Ngài hẳn hiểu rõ, thưa Stalin, rằng phần lớn thế giới từ lâu đã có ấn tượng khác.
Stalin: Đó là kết quả của một sự hiểu lầm.
Howard: Một sự hiểu lầm bi thảm sao?
Stalin: Không, một sự hiểu lầm khôi hài. Hoặc, có lẽ, bi hài kịch. Ông thấy đó, chúng tôi - những người Mác-xít - tin rằng cách mạng cũng sẽ diễn ra ở các quốc gia khác. Nhưng nó chỉ xảy ra khi những người cách mạng ở các quốc gia đó cho rằng điều đó là có thể, hoặc cần thiết. Xuất khẩu cách mạng là chuyện vô nghĩa. Mỗi quốc gia sẽ tự làm cách mạng của riêng mình nếu họ muốn, và nếu họ không muốn thì sẽ chẳng có cách mạng nào cả. Ví dụ, đất nước chúng tôi muốn làm cách mạng thì đã làm, và bây giờ chúng tôi đang xây dựng một xã hội mới, không còn giai cấp. Nhưng nói rằng chúng tôi muốn làm cách mạng ở các quốc gia khác, can thiệp vào đời sống của họ, thì tức là nói điều không đúng sự thật, và là điều mà chúng tôi chưa bao giờ chủ trương.
Howard: Vào thời điểm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, Tổng thống Roosevelt và Litvinov đã trao đổi những công hàm giống hệt nhau liên quan đến vấn đề tuyên truyền. Đoạn bốn trong bức thư của Litvinov gửi Tổng thống Roosevelt nói rằng chính phủ Xô-viết cam kết “không cho phép thành lập hoặc cư trú trên lãnh thổ mình bất kỳ tổ chức hay nhóm nào – và ngăn chặn hoạt động trên lãnh thổ mình của bất kỳ tổ chức hay nhóm nào, hoặc đại diện hay quan chức của bất kỳ tổ chức hay nhóm nào – mà mục tiêu là lật đổ, hay chuẩn bị lật đổ, hoặc tiến hành bằng vũ lực sự thay đổi chế độ chính trị hay xã hội của toàn bộ hay một phần lãnh thổ hoặc thuộc địa của quốc gia đó.” Vậy, thưa ngài Stalin, tại sao Litvinov lại ký vào bức thư này nếu việc tuân thủ điều khoản bốn là trái với lợi ích của Liên Xô hoặc nằm ngoài khả năng kiểm soát của Liên Xô?
Stalin: Việc thực hiện các nghĩa vụ được nêu trong điều khoản mà ông vừa trích hoàn toàn nằm trong khả năng kiểm soát của chúng tôi; chúng tôi đã thực hiện, và sẽ tiếp tục thực hiện những nghĩa vụ đó. Theo hiến pháp của chúng tôi, những người di cư chính trị có quyền cư trú trên lãnh thổ của chúng tôi. Chúng tôi cho họ quyền tị nạn, cũng giống như Hoa Kỳ cấp quyền tị nạn cho những người di cư chính trị. Rõ ràng là khi Litvinov ký vào bức thư đó, ông ấy giả định rằng các nghĩa vụ trong thư là mang tính chất song phương. Ông nghĩ sao, thưa ông Howard, về thực tế là trên lãnh thổ Hoa Kỳ hiện có những người di cư Bạch vệ Nga đang tiến hành tuyên truyền chống lại Liên Xô và ủng hộ chủ nghĩa tư bản, được công dân Mỹ trợ cấp về vật chất, và trong một số trường hợp còn đại diện cho các nhóm khủng bố? Chẳng phải điều này đi ngược lại với thỏa thuận Roosevelt–Litvinov sao? Hiển nhiên là những người di cư này được hưởng quyền tị nạn, điều vốn cũng tồn tại ở Hoa Kỳ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ không bao giờ dung túng trên lãnh thổ mình bất kỳ kẻ khủng bố nào, bất kể âm mưu tội ác của hắn nhắm vào ai. Rõ ràng quyền tị nạn ở Hoa Kỳ được hiểu theo nghĩa rộng hơn ở đất nước chúng tôi. Nhưng chúng tôi không phàn nàn. Có thể ông sẽ nói rằng chúng tôi đồng cảm với những người di cư chính trị đến trên lãnh thổ chúng tôi. Nhưng chẳng lẽ không có công dân Mỹ nào đồng cảm với những kẻ di cư Bạch vệ đang tiến hành tuyên truyền ủng hộ chủ nghĩa tư bản và chống lại Liên Xô sao? Vậy vấn đề là gì? Vấn đề ở chỗ không được hỗ trợ những kẻ này, không được tài trợ cho các hoạt động của chúng. Vấn đề là các quan chức chính thức của cả hai nước phải kiềm chế không can thiệp vào đời sống nội bộ của nước kia. Các quan chức của chúng tôi đang thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ này. Nếu có ai thất trách, xin hãy cho chúng tôi biết. Nếu chúng tôi đi quá xa và yêu cầu tất cả những người di cư Bạch vệ phải bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ, thì điều đó sẽ xâm phạm quyền tị nạn vốn được tuyên bố cả ở Hoa Kỳ lẫn Liên Xô. Cần phải thừa nhận một giới hạn hợp lý cho những yêu cầu và phản yêu cầu. Litvinov đã ký vào bức thư gửi Tổng thống Roosevelt không phải với tư cách cá nhân, mà với tư cách là đại diện của một nhà nước, cũng như Tổng thống Roosevelt vậy. Thỏa thuận đó là thỏa thuận giữa hai quốc gia. Khi ký vào thỏa thuận này, cả Litvinov và Tổng thống Roosevelt, với tư cách đại diện cho hai quốc gia, đều có trong đầu vấn đề hoạt động của các cơ quan thuộc quốc gia mình, rằng họ không được và sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của phía bên kia. Quyền tị nạn vốn được tuyên bố ở cả hai quốc gia không thể bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận này. Hiệp định Roosevelt–Litvinov, với tư cách là thỏa thuận giữa hai quốc gia, cần được diễn giải trong những giới hạn này.
Howard: Thế còn Browder và Darcy, hai người Cộng sản Mỹ, chẳng phải họ đã xuất hiện trước Đại hội lần thứ bảy của Quốc tế Cộng sản mùa hè vừa rồi, và kêu gọi lật đổ chính quyền Mỹ bằng bạo lực sao?
Stalin: Tôi phải thú thật rằng tôi không nhớ các bài phát biểu của các đồng chí Browder và Darcy; tôi thậm chí còn không nhớ họ đã nói về điều gì. Có lẽ họ đã nói điều gì đó như ông vừa đề cập. Nhưng Đảng Cộng sản Mỹ không phải do người Xô-viết lập ra. Nó được thành lập bởi chính người Mỹ. Nó tồn tại hợp pháp ở Hoa Kỳ. Nó đưa ra ứng cử viên trong các cuộc bầu cử, kể cả bầu cử tổng thống. Nếu các đồng chí Browder và Darcy có một lần phát biểu ở Moskva, thì ở quê hương Hoa Kỳ họ đã phát biểu hàng trăm lần tương tự, thậm chí chắc chắn còn mạnh mẽ hơn. Những người Cộng sản Mỹ được phép tự do tuyên truyền tư tưởng của họ, đúng không? Vậy thì thật sai lầm nếu buộc chính phủ Xô-viết phải chịu trách nhiệm về hoạt động của những người Cộng sản Mỹ.
Howard: Nhưng trong trường hợp này, chẳng phải thực tế là các hoạt động của họ đã diễn ra trên lãnh thổ Liên Xô, trái với điều khoản bốn của thỏa thuận giữa Roosevelt và Litvinov sao?
Stalin: Hoạt động của Đảng Cộng sản là gì? Chúng có thể biểu hiện ra sao? Thông thường, hoạt động của họ bao gồm việc tổ chức quần chúng công nhân, tổ chức các cuộc mít-tinh, biểu tình, đình công, v.v. Tất nhiên, những người Cộng sản Mỹ không thể làm tất cả những điều này trên lãnh thổ Liên Xô. Chúng tôi không có công nhân Mỹ ở Liên Xô.
Howard: Tôi hiểu ý ngài là có thể đưa ra một cách diễn giải sao cho vẫn bảo đảm và duy trì quan hệ tốt đẹp giữa hai nước chúng ta?
Stalin: Vâng, hoàn toàn đúng.
Howard: Phải thừa nhận rằng chủ nghĩa cộng sản chưa được thực hiện ở nước Nga. Chủ nghĩa xã hội nhà nước đã được xây dựng. Nhưng chẳng phải chủ nghĩa phát xít ở Ý và chủ nghĩa xã hội quốc gia ở Đức cũng tuyên bố rằng họ đã đạt được những kết quả tương tự sao? Và chẳng phải cả hai đều đạt được bằng cái giá của sự thiếu thốn và sự hy sinh tự do cá nhân vì lợi ích của nhà nước đó sao?
Stalin: Thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội nhà nước” là không chính xác. Nhiều người hiểu thuật ngữ này theo nghĩa một phần của cải, đôi khi là một phần khá đáng kể, được chuyển vào tay nhà nước hoặc nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, trong khi trong đa số tuyệt đối các trường hợp thì nhà máy, xí nghiệp, ruộng đất vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Đây là điều mà nhiều người coi là “chủ nghĩa xã hội nhà nước”. Đôi khi, thuật ngữ này còn bao hàm hệ thống trong đó nhà nước tư bản, nhằm chuẩn bị hay tiến hành chiến tranh, trực tiếp quản lý một số xí nghiệp tư nhân bằng chi phí của mình. Xã hội mà chúng ta đã xây dựng tuyệt đối không thể gọi là “chủ nghĩa xã hội nhà nước.” Xã hội Xô viết của chúng tôi là xã hội xã hội chủ nghĩa, bởi vì chế độ sở hữu tư nhân về nhà máy, xí nghiệp, ruộng đất, ngân hàng và hệ thống giao thông đã bị xóa bỏ và thay thế bằng chế độ sở hữu công cộng. Tổ chức xã hội mà chúng tôi đã tạo dựng có thể gọi là một tổ chức xã hội chủ nghĩa Xô viết, chưa hoàn toàn hoàn chỉnh, nhưng về cơ bản, là một tổ chức xã hội chủ nghĩa. Cơ sở của xã hội này là tài sản công cộng: tài sản nhà nước, tức là tài sản quốc gia, và cả tài sản tập thể của các hợp tác xã, nông trang tập thể. Chủ nghĩa phát xít Ý cũng như “Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia” Đức tuyệt nhiên không có gì chung với xã hội ấy. Trước hết là bởi vì chế độ sở hữu tư nhân về nhà máy, xí nghiệp, ruộng đất, ngân hàng, giao thông, v.v… vẫn còn nguyên vẹn, và do đó, chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại đầy đủ ở Đức và Ý. Đúng, ông nói đúng, chúng tôi chưa xây dựng được xã hội cộng sản. Xây dựng xã hội đó không hề dễ dàng. Chắc ông cũng biết sự khác nhau giữa xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vẫn còn những bất bình đẳng nhất định về tài sản. Nhưng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đã không còn thất nghiệp, không còn bóc lột, không còn áp bức dân tộc. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mọi người đều buộc phải lao động, mặc dù họ chưa nhận được từ xã hội theo nhu cầu của mình, mà chỉ theo số lượng và chất lượng công việc đã làm. Đó là lý do tại sao vẫn còn tiền lương, hơn nữa là tiền lương không đồng đều, phân biệt theo mức đóng góp. Chỉ khi nào chúng tôi xây dựng được một hệ thống mà trong đó con người nhận từ xã hội không phải theo số lượng và chất lượng lao động, mà theo nhu cầu của mình, thì khi đó mới có thể nói rằng xã hội cộng sản đã được xây dựng. Ông nói rằng để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa chúng tôi đã hy sinh tự do cá nhân và chịu nhiều thiếu thốn. Câu hỏi của ông gợi ý rằng xã hội xã hội chủ nghĩa phủ nhận tự do cá nhân. Điều đó không đúng. Dĩ nhiên, để xây dựng một cái gì mới thì phải tiết kiệm, phải tích lũy nguồn lực, phải giảm tiêu dùng một thời gian và vay mượn từ bên ngoài. Nếu một người muốn xây một ngôi nhà thì anh ta phải tiết kiệm tiền, phải bớt tiêu dùng trong một thời gian, nếu không thì ngôi nhà sẽ không bao giờ được dựng lên. Huống hồ khi nói tới việc xây dựng một xã hội mới cho loài người? Chúng tôi buộc phải cắt giảm tiêu dùng một thời gian, tập hợp nguồn lực cần thiết và nỗ lực to lớn. Chính điều đó chúng tôi đã làm, và chúng tôi đã xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng tôi không xây dựng xã hội đó để hạn chế tự do cá nhân, mà là để con người thực sự cảm thấy tự do. Chúng tôi xây dựng nó vì tự do chân chính, tự do không có ngoặc kép. Tôi khó mà tưởng tượng được một “tự do cá nhân” nào đó mà một người thất nghiệp, đi lang thang đói khát và không thể tìm được việc làm, có thể tận hưởng. Tự do thực sự chỉ có thể tồn tại ở nơi nào bóc lột đã bị xóa bỏ, ở nơi nào không còn áp bức kẻ này đối với kẻ khác, ở nơi nào không có thất nghiệp và nghèo đói, ở nơi nào con người không còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ ngày mai sẽ mất việc làm, mất nhà cửa, mất cái ăn. Chỉ trong một xã hội như thế, tự do thực sự – chứ không phải trên giấy tờ – về cá nhân cũng như về mọi mặt khác mới có thể trở thành hiện thực.
Howard: Ông có cho rằng sự phát triển song song của nền dân chủ Mỹ và hệ thống Xô viết là tương thích với nhau không?
Stalin: Nền dân chủ Mỹ và hệ thống Xô viết có thể cùng tồn tại trong hòa bình và cạnh tranh với nhau. Nhưng cái này không thể tiến hóa thành cái kia. Hệ thống Xô viết sẽ không tiến hóa thành nền dân chủ Mỹ, và ngược lại. Chúng ta có thể hòa bình chung sống bên nhau nếu không chấp nhặt nhau về mọi chuyện vặt vãnh.
Howard: Một bản hiến pháp mới đang được soạn thảo tại Liên Xô, quy định một hệ thống bầu cử mới. Vậy hệ thống này có thể thay đổi tình hình ở Liên Xô đến mức nào, khi mà cũng như trước đây, vẫn chỉ có một đảng tham gia bầu cử?
Stalin: Chúng tôi có lẽ sẽ thông qua hiến pháp mới vào cuối năm nay. Ủy ban được chỉ định để soạn thảo hiến pháp đang làm việc và sắp hoàn tất công việc. Như đã được công bố, theo hiến pháp mới, quyền bầu cử sẽ là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ông không hiểu tại sao chỉ có một đảng tham gia bầu cử. Ông không hiểu được làm thế nào để có thể có sự cạnh tranh bầu cử trong điều kiện như thế. Rõ ràng, ứng cử viên sẽ không chỉ được giới thiệu bởi Đảng Cộng sản, mà còn bởi nhiều tổ chức quần chúng phi đảng. Và chúng tôi có hàng trăm tổ chức như vậy. Chúng tôi không còn các đảng đối lập cũng như không còn giai cấp tư sản đối lập với giai cấp công nhân bị bóc lột bởi bọn tư bản. Xã hội của chúng tôi hoàn toàn bao gồm những người lao động tự do ở thành thị và nông thôn – công nhân, nông dân, trí thức. Mỗi tầng lớp này có thể có những lợi ích đặc thù và thể hiện chúng thông qua nhiều tổ chức quần chúng khác nhau. Nhưng vì không còn giai cấp, vì đường ranh giới giai cấp đã bị xóa bỏ, vì trong xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ còn những khác biệt nhỏ chứ không mang tính chất cơ bản giữa các tầng lớp, nên không có cơ sở cho sự hình thành các đảng phái đối lập. Ở đâu không có nhiều giai cấp thì ở đó không thể có nhiều đảng, bởi đảng là một bộ phận của giai cấp. Dưới chế độ “Quốc xã” cũng chỉ có một đảng. Nhưng hệ thống một đảng phát xít đó sẽ không đem lại điều gì. Bởi vì ở Đức, chủ nghĩa tư bản và các giai cấp vẫn tồn tại, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại và sẽ buộc phải bộc lộ ra, bất chấp tất cả, ngay cả trong hình thức đấu tranh giữa các đảng đại diện cho những giai cấp đối kháng, đúng như cách nó đã bùng nổ ở Tây Ban Nha chẳng hạn. Ở Ý cũng chỉ có một đảng, đó là Đảng Phát xít. Nhưng ở đó cũng sẽ chẳng đem lại gì, vì những lý do tương tự. Tại sao quyền bầu cử của chúng tôi sẽ là phổ thông? Bởi vì tất cả công dân, ngoại trừ những người bị tòa án tước quyền, đều có quyền bầu cử và ứng cử. Tại sao quyền bầu cử của chúng tôi sẽ là bình đẳng? Bởi vì sự khác biệt về tài sản (vẫn còn tồn tại ở mức độ nào đó) hay sự khác biệt về chủng tộc hoặc dân tộc sẽ không kéo theo đặc quyền hay sự bất bình đẳng nào. Phụ nữ sẽ có quyền bầu cử và ứng cử như nam giới. Quyền bầu cử của chúng tôi thực sự sẽ bình đẳng. Tại sao lại bỏ phiếu kín? Bởi vì chúng tôi muốn trao cho nhân dân Xô viết sự tự do hoàn toàn để bầu ra những người mà họ muốn, những người mà họ tin tưởng sẽ bảo vệ lợi ích của họ. Tại sao trực tiếp? Bởi vì bầu cử trực tiếp vào tất cả các cơ quan đại diện, cho đến cả những cơ quan tối cao, sẽ bảo đảm tốt nhất lợi ích của những người lao động trong đất nước bao la của chúng tôi. Ông nghĩ rằng sẽ không có sự tranh cử. Nhưng sẽ có, và tôi dự đoán những chiến dịch bầu cử sẽ rất sôi nổi. Ở đất nước chúng tôi, không ít cơ quan làm việc kém hiệu quả. Vẫn có những trường hợp cơ quan chính quyền địa phương nào đó không đáp ứng được các yêu cầu đa dạng và ngày càng tăng của những người lao động thành thị và nông thôn. Các ông đã xây dựng được một ngôi trường tốt hay chưa? Các ông đã cải thiện điều kiện nhà ở hay chưa? Các ông có phải là quan liêu không? Các ông đã giúp cho lao động của chúng tôi hiệu quả hơn và cuộc sống của chúng tôi văn minh hơn hay chưa? Đó sẽ là những tiêu chuẩn mà hàng triệu cử tri sẽ dùng để đánh giá mức độ xứng đáng của ứng cử viên, gạt bỏ những kẻ không thích hợp, xóa tên họ khỏi danh sách ứng cử, và đề bạt cũng như giới thiệu những người tốt nhất. Vâng, các chiến dịch bầu cử sẽ rất sôi nổi, chúng sẽ được tiến hành xoay quanh vô số vấn đề hết sức cấp bách, chủ yếu là những vấn đề thực tiễn, có tầm quan trọng hàng đầu đối với nhân dân. Hệ thống bầu cử mới của chúng tôi sẽ siết chặt tất cả các cơ quan và tổ chức, buộc chúng phải cải thiện công việc của mình. Quyền bầu cử phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín ở Liên Xô sẽ trở thành một cây roi trong tay nhân dân đối với những cơ quan chính quyền làm việc kém hiệu quả. Theo ý kiến tôi, hiến pháp Xô viết mới của chúng tôi sẽ là bản hiến pháp dân chủ nhất thế giới.
Pravda 5 tháng 3 năm 1936
- Nguồn : Marxists Internet Archive (2008) https://www.marxists.org/.../stalin/works/1936/03/01.htm